Kỹ thuật nuôi chó và chon giống chó mới
A. Kỹ thuật nuôi chó đực giống
chó
đực một năm có thể cho nhảy được 12 – 15 chó cái (thường lần nhảy trước và lần
nhảy sau cách nhau 7 – 10 ngày).
Nếu
chó cái được nhảy đực thụ thai, mỗi lứa trung bình đẻ ra 4 – 7 chó con, thì mỗi
năm một đực giống có thể cho ra đàn con là 50 – 60 chó con.
Chó
đực giống tốt, khi phối giống sẽ cho ra đàn con tốt, cho nên việc chọn đực
giống rất quan trọng.
1. Nghiên cứu hệ phả
Nhằm
tìm ra nguồn gốc giống, ta sẽ nắm được bố và mẹ thuộc giống gì, phẩm chất tốt
hay xấu, có đạt mục đích sử dụng theo hướng nào ?
2. Chọn lọc theo chỉ số chọn lọc
Chọn
lọc đực giống theo các chỉ số giống ta cần là chọn lọc theo dõi từng con.
Theo
dõi quá trình sinh trưởng phát dục của chó từ nhỏ đến lớn. Cần theo dõi các chỉ
tiêu : ngoại hình cân đối, màu lông, hình dáng đẹp, lanh lợi, khỏe mạnh, mắt
tinh, tai thính, mũi thính, thân hình chắc.
Đặc
biệt cơ quan sinh dục phải đảm bảo tốt, hai dịch hoàn (hòn cà) to đều, gọn,
dương vật phát triển đều. Có phản xạ sinh dục hăng hái. Khi đến tuổi trưởng thành
hăng hái nhảy giống.
3. Theo dõi đời sau
Nhận
xét đời sau (khả năng nhảy của đàn con, đàn con sinh ra sự phát triển) có theo
dõi chặt chẽ đời sau mới đánh giá chính xác con giống.
Việc
chọn chó đực giống phải làm thường xuyên liên tục, mới có chó giống tốt, kịp
thời đào thải chó đực xấu thoái hóa.
4. Chăm sóc nuôi dưỡng chó đực giống
Khi
tuyển chọn chó đực giống theo yêu cầu, cần phải xác định ngay từ lúc mới được 1
tuần tuổi, lúc này đã có thể chọn những con đực có ngoại hình và thể chất tốt.
Những
chó con sau khi được chọn sơ bộ, sẽ đánh dấu chăm sóc chu đáo hơn. Khẩu phần ăn
để nuôi chó giống có tỷ lệ đạm cao hơn, tăng cường các vitamin nhất là loại A,
D, E, chú ý không cho ăn nhiều mỡ, giảm bớt chất bột đề phòng chó béo quá.
Lượng thức ăn tùy theo tuổi, trọng lượng của chó để quyết định, chú ý đúng mức
việc cho chó ăn bổ sung các chất khoáng đa lượng và vi lượng. Đặc biệt là các
nguyên tố kẽm, mangan có liên quan tới sự phát triển sinh dục của chó đực.
Trước
khi chuẩn bị cho phối giống phải bồi dưỡng thêm từ 7 – 10 ngày, chú ý cho ăn
trứng và sữa để tỷ lệ thụ thai cao.
Thường
xuyên cho chó dạo chơi, vận động trong môi trường không khí trong lành, tắm
chải sạch sẽ, chú ý bảo vệ tốt cơ quan sinh dục, chống bị sây sát, viêm nhiễm.
5. Sử dụng chó đực giống
Tuổi
giao phối tốt nhất của chó đực giống vào lúc 20 tháng tuổi, thời gian khai thác
con đực khoảng 9 – 10 năm tuổi, trong những điều kiện bình thường, chó đực có
thể giao phối bất kỳ mùa nào trong năm. Mỗi lần cho nhảy phải cách nhau 7 – 10
ngày (trừ trường hợp nhảy đúp trong vòng 24 giờ).
Trước
khi cho nhảy giống lần đầu phải biết cách giữ gìn và giúp đỡ chó nhảy đúng,
tránh va chạm nhiều, tránh “vờn” hay kéo dài, nhưng không nhảy được, làm con
đực quá mệt, hại sức.
Thời
gian nhảy tốt nhất vào lúc sáng sớm hoặc gần tối, thời tiết mát dịu.
Nơi
giao phối sạch sẽ, khô ráo, bằng phẳng, và yên tĩnh.
Khi
mới ăn no, mới đi vận động thì cho nghỉ từ 30 phút – 1 giờ mới cho nhảy giống.
B. Kỹ thuật nuôi chó cái sinh
sản
1. Chọn giống
Chọn
lọc theo phương pháp nghiên cứu họ phả, nghĩa là chọn chó bố mẹ làm giống phải
tốt, đạt các tiêu chuẩn thể chất, ngoại hình theo ý muốn của người nuôi.
Muốn
có chó đạt các chỉ tiêu thể chất và ngoại hình như thế nào, thì phải chọn chó
bố mẹ có chỉ tiêu thể chất, ngoại hình như vậy.
2. Chăm sóc chó cái sinh sản
Chó
con sinh ra được một tuần ta có thể chọn làm giống, tập trung chăm sóc. Nuôi
dưỡng tốt hơn ngay từ đầu, phải cho chó này bú nhiều hơn các con chó khác trong
đàn.
Chó
cái giống tránh nuôi quá béo hoặc quá gầy, chú ý cho ăn đầy đủ chất dinh dưỡng
trong khẩu phần ăn như chất đạm, bột đường, chất khoáng và các vitamin để bộ
khung xương phát triển đầy đủ và đảm bảo thể chất, ngoại hình hoàn chỉnh như
mong muốn của chủ nuôi.
Thường
xuyên cho chó cái dạo chơi vận động thoải mái trong môi trường không khí trong
lành, tắm nắng hợp lý.
Khả
năng sinh sản của chó cái xuất hiện vào khoảng 8 – 10 tháng tuổi, cá biệt có
con sớm hơn , lúc này các tế bào
sinh dục cái đã phân chia, tế bào trứng đã trưởng thành, mặc dù ở con cái đã
xuất hiện khả năng sinh dục, nhưng tầm vóc và sự phát triển thể lực của cơ thể
còn đang tiếp tục phát triển. Cho nên cho giao phối ở tuổi này là không hợp lý.
Những chó con ở tuổi này sinh ra khả năng sống và phát triển rất thấp. Tuổi
thích hợp cho chó cái giao phối vào lúc 10 tháng tuổi, nghĩa là phải bỏ qua một
lần động dục đầu, mà phải lần thứ hai mới cho phối giống, thời gian này sự phát
triển của con cái đã hoàn thiện hơn. Cũng như chó đực, khi chó cái chuẩn bị cho
phối giống cần bồi dưỡng trước kỳ là 15 ngày, cho ăn đủ chất đạm và các loại
sinh tố, các chất giàu khoáng đa và vi lượng cần thiết cho sự phát triển của
bào thai. Chuồng nuôi phải khô ráo, sạch, thoáng mát, đủ nước sạch cho chó uống
thường xuyên.
Khi
nuôi dưỡng chăm sóc chó nếu phát hiện chó cái động dục cần phải mở sổ ghi chép
giờ ngày bắt đầu động dục (tính từ ngày chảy máu ở âm hộ đầu tiên) và cũng từ
đó theo dõi chặt sự thay đổi màu sắc ở âm hộ con cái, chú ý cả chất nhầy thải
ra, qua kinh nghiệm mà cho đực phối đúng ngày, đúng kỳ. Về mặt sinh lý chó,
thường từ ngày thứ 9 trở đi đã có khả năng chịu đực.
Tính
ngày, kết hợp với theo dõi màu sắc, chất thải ở cơ quan sinh dục cái, ta quyết
định cho nhảy chính xác, khả năng thụ thai sẽ cao và số con đẻ ra sẽ nhiều.
3. Chăm sóc chó cái mang thai
Sau
khi cho giao phối, dự đoán chó có thể có chửa, phải nuôi dưỡng tốt. Ngoài khẩu
phần ăn bình thường, cần bồi dưỡng thêm. Mỗi ngày có thể cho ăn thêm từ 50 – 60
gam thịt nạc, hoặc 1 quả trứng và sữa tươi.
Trong
30 ngày đầu, thai chưa rõ, chỉ từ tháng 2 trở đi mới thấy rõ các hiện tượng ở
con cái như : trọng lượng tăng nhanh, thân hình to ra, bầu vú căng dần.
Thời
gian mang thai trung bình của chó là 60 – 62 ngày, có thể sớm hơn hoặc kéo dài
đến 65 ngày. Việc nuôi chó cái đúng đắn, với đầy đủ chất dinh dưỡng có ý nghĩa
to lớn. Trong nửa thời kỳ đầu mang thai cho chó ăn mỗi ngày 3 bữa, thời kỳ sau
mỗi ngày 4 bữa, nhưng mỗi bữa giảm khối lượng (vẫn đảm bảo chất lượng).
4. Đẻ con
Dựa vào sổ phối giống để chuẩn bị cho chó đẻ, thường từ ngày thứ 58 trở đi phải
chuẩn bị ổ đẻ và trực thường xuyên để giúp đỡ chó đẻ. Trước khi đẻ 1 ngày chó
cái bỏ ăn, đi lại liên tục quanh chuồng, tìm chỗ đẻ, hô hấp nhanh hơn, dáng
điệu khó nhọc, chó rên rỉ, nhất là lúc chuyển dạ, sự đau đớn tăng lên, chất
nhầy từ âm hộ chảy ra nhiều có con lọt ra ngoài theo cái bọc, lúc đó chó mẹ cắn
rách bọc để chó con chui ra.
Chó
con sinh ra, còn dính với dây rốn và nhau,
sau đó chó mẹ cắn đứt dây rốn, và liếm khô chó con. Tiếp tục là sự chuyển dạ để
đẩy các chó con còn trong bụng ra ngoài. Thường thường, khoảng cách giữa trước
và sau một khoảng thời gian là 20 phút, có thể kéo dài từ 1 – 1,5 giờ. Trong
khi chó đẻ phải quan sát đề phòng đẻ khó, chó con đẻ ra yếu và bị ngạt (khi đó
phải có sự hỗ trợ ngay của cán bộ kỹ thuật). Thời gian đẻ của chó nhanh chậm
tùy số lượng chó con, tùy sức khỏe chó mẹ và các điều kiện khác, nhưng thường
từ 4 – 10 giờ mới kết thúc.
Khi
chó đẻ xong, cần cho chó mẹ uống sữa hoặc nước đường, và nghỉ ngơi khoảng 6 – 8
giờ mới cho ăn cháo thịt hâm nóng. Chế độ này duy trì trong 24 giờ đầu. Những
ngày sau, mỗi ngày cho ăn từ 3 – 5 bữa. Sau lần cho ăn đầu tiên, cần thay đệm
cho chó con, và sau đó mỗi ngày thay đệm 1 lần.
C. Kỹ thuật nuôi chó con đang bú sữa
Sau khi ra khỏi bụng mẹ, chó con bắt đầu phải chịu đựng : nhiệt độ, ôn độ, ẩm
độ và điều kiện dinh dưỡng hoàn toàn mới lạ là việc bú sữa mẹ, cơ quan tiêu hóa
chính thức hoạt động.
Việc
nuôi dưỡng chó con tuân theo một số giai đoạn với những biện pháp kỹ thuật hết
sức khoa học, nhằm hướng tới đích là: chó khỏe mạnh, phát triển tốt.
Nuôi
chó con đúng khoa học là tạo cho con chó có sức chịu đựng dẻo dai, thích nghi
với hoàn cảnh sống Việt Nam, chó luôn cảnh giác với người lạ, khứu giác, thính
giác phải nhạy, cũng cần dạy cho chó “vâng lời”. Muốn có đàn chó con khỏe mạnh
cần chú ý đến chất lượng chó bố và chó mẹ. Khi chó mẹ mang thai và cả khi nó
nuôi con đều phải được nuôi dưỡng đầy đủ, chú ý chất đạm, khoáng và vitamin.
Chó
con mới sinh chưa thích nghi với điều kiện sống mới, nên phải quan tâm đầy đủ
tới chúng như: đệm lót phải sạch, khô, đảm bảo nhiệt độ ấm thường xuyên (nếu
nhiệt độ thích hợp, chó con tản đều, ngủ tốt, nếu quá lạnh chúng chụm vào nhau,
quá nóng chúng phân tán nhiều hơn, tỏ ra khó chịu). Chú ý khi khí hậu thời tiết
thay đổi bất thường (mưa bão đột ngột).
Chó
con mới sinh ra phải cho bú sữa mẹ, nhất thiết phải được bú sữa đầu (vì trong
sữa đầu có nhiều kháng thể giúp chó con chống đỡ bệnh tật). Khi mới sinh chó
chưa có răng, lỗ khe tai đóng lại chó con chuyển động rất khó khăn, mọi hoạt
động của chó con lúc này nhờ bản năng như: tìm vú mẹ và bú mút, chó mẹ cũng tạo
thuận lợi cho chó con bú sữa.
Nếu
chó mẹ vụng về (tức là bản năng không phát triển) người chủ chó phải đưa sát mõm
chó con vào đầu vú mẹ, lúc này cần theo dõi hành vi của chó mẹ và sự bú mút của
chó con, nếu có gì không bình thường cần mời bác sĩ thú y…
Sau
khi chó con ra đời được 1 ngày phải theo dõi chúng hoạt động có bình thường
không, đồng thời kiểm tra các ngón thừa. Thường sau 3 – 4 ngày người ta phải
cắt ngón thừa cho gọn. Mỗi ổ chó sinh ra thường nuôi từ 4 – 7 con tùy khả năng
và sự tiết sữa của chó mẹ, từ ngày thứ 3 – 10 cần cắt phần nhọn ở hai chân
trước của chó con (đề phòng chúng cào rách vú mẹ) đến ngày thứ 20 cắt lại một
lần nữa.
Cần
cho chó mẹ ăn đủ chất, chú ý đủ chất đạm (protít, khoáng và vitamin nhóm A,
nhóm B) .
Trong
thời kỳ đầu nuôi chó con chủ yếu bằng sữa chó mẹ, và từ ngày thứ 5 trở đi có
thể cho chó con ăn thêm sữa bò.
Việc
cho chó con ăn theo một khẩu phần hợp lý có ý nghĩa lớn đến sự phát triển của
chó sau này. Khi mới sinh chó được bú sữa mẹ tương đối đủ (nếu được bú no đủ,
chó ngủ tốt) nếu thiếu sữa chó cựa quậy đòi ăn.
Sau
khi đẻ được 5 – 10 ngày cho chó con ăn thêm sữa hâm nóng, lúc đầu bú bằng vú
cao su, về sau rót sữa ra đĩa và dúi mõm chó con vào đĩa có sữa để chó con tự
liếm sữa cho quen dần cách “tợp” sữa. Hàng ngày cho mỗi chó con ăn thêm 100ml –
200ml sữa đến khi chó được 120 ngày tuổi.
Chó
con được 15 ngày tuổi, cho ăn thêm cháo sữa, có thịt băm (khoảng 20 gam thịt
nạc), mỗi ngày cho ăn 1 – 2 bữa.
Từ
tuần tuổi thứ 3 (21 ngày tuổi) cho chó con ăn thêm cháo gạo ninh nhừ, trộn thịt
nạc băm, mỗi ngày cho chó ăn 2 bữa. Từ 30 ngày tuổi trở đi, lượng thịt tăng lên
từ 20 – 50 gam cho mỗi ngày.
Cũng
từ ngày tuổi thứ 30 trở đi cho ăn thêm khoai tây, rau xanh, lượng rau và khoai
tây tăng dần, tăng lượng vitamin.
–
Các loại vitamin A và D thường được quan tâm hơn cả, và được hổ sung bằng dầu
gan cá thu.
–
Các chất khoáng đa lượng và vi lượng rất cần thiết cho quá trình tạo khung
xương và tham gia nhiều quá trình trao đổi chất.
–
Chó con dưới 120 ngày tuổi, mỗi ngày cho ăn 5 bữa, từ 4 – 6 tháng tuổi, mỗi
ngày cho ăn 4 bữa, từ 6 tháng trở lên mỗi ngày cho ăn 3 bữa hoặc 2 bữa, lượng
thức ăn được tăng dần theo mức độ phát triển của có thể chó con. Cần quan tâm
đến độ choán dạ dày chó con.
Chó
con từ 30 – 60 ngày tuổi mỗi bữa cho ăn từ 100 – 200ml thức ăn, từ 2 – 4 tháng
tuổi mỗi bữa cho ăn từ 0,2 – 0,3 lít. Từ 6 – 11 tháng tuổi mỗi bữa cho ăn 0,4
lít hỗn hợp thức ăn (tùy chó lớn hay bé mà điều chỉnh dung tích thức ăn).
Theo
dõi tình hình phát triển bình thường của chó con theo một trình tự như sau: chó
con sinh ra được 5 – 8 ngày, khe tai mở, thính giác bắt đầu phát triển, đến 11
– 16 ngày thính giác đã hoạt động bình thường. Từ ngày thứ 11 – 15 (tùy theo số
lượng chó con sinh ra) khe mắt bắt đầu mở . Từ ngày thứ 20 – 25 răng sữa bắt
đầu mọc. Trong khoảng từ 8 – 10 ngày (kể từ khi mọc răng) răng cửa, răng nanh
mọc xong. Khi chó con được 60 ngày tuổi răng sữa cơ bản mọc xong. Nếu răng mọc
chậm, chứng tỏ sự nuôi dưỡng không đầy đủ và sự phát triển của chó con là kém.
Cân
trọng lượng để đánh giá tình trạng phát triển và sức khỏe của chó con.
Nếu
nuôi dưỡng đầy đủ, khi 80 ngày tuổi một số chó có thể nặng 1 – 1,2kg.
Theo
một số chuyên gia nuôi chó cho biết tốc độ chó con tăng nhanh 60 – 180 ngày
tuổi, độ dài tứ chi tâng từ 2,5 – 3 lần, lúc này xương ống ngừng phát triển;
lồng ngực vẫn phát triển, độ dài đốt các ngón, chiều cao vây tạm ổn định. Tốc
độ lớn mãnh liệt nhất của chó diễn ra trước khi nó được 6 tháng tuổi. Chiều cao
vây tăng từ 87,5 – 108% khi chó được 120 ngày tuổi, và từ 120 – 180 ngày tuổi
chỉ tảng thêm 8,5 – 7%; từ 180 – 210 ngày tuổi tăng 7,1 – 8,3%, từ 6 – 11 – 12
tháng tuổi, chó lớn lên rất ít, hầu như dừng lại; tuy vậy mãi cho tới khi chó
được 2,5 tuổi mới ngừng lớn.
Từ
đặc điểm sinh lý này của chó, giúp ta nuôi dưỡng chó một cách hợp lý. Việc chăm
sóc nuôi dưỡng chó con từ khi mới sinh cho đến khi chó được 210 ngày tuổi có
tính chất quyết định trong nghề nuôi chó.
Cũng
trong thời kỳ này việc cho ăn thức ăn bổ sung giầu chất khoáng và vitamin cực
kỳ cần thiết. Các chất khoáng – vitamin có nhiều trong thịt nạc, trứng, sữa,
gan. Trong 100 gam sữa tươi có 120mg canxi, 95mg phốt pho, 14mg magiê, 0,1mg
sắt và 34mg lưu huỳnh. Hàm lượng sắt trong sữa là thấp nhất. Trong khi đó đậu
tương có 11,0mg sắt gan lợn 12,0mg, gan bò 10,0mg vì vậy vấn đề bổ sung sắt cho
chó con bằng con đường dinh dưỡng rất cần thiết cho quá trình tạo máu. Chó con
mới sinh cần phải được bú sữa đầu. Vì trong sữa đầu có các kháng thể giúp chó
con chống đỡ với một số bệnh truyền nhiễm. Hàm lượng kháng thể này giảm dần,
đến khi 2 tháng tuổi hầu như không côn. Vì vậy kể từ lúc này người ta đã phải
gây miễn dịch chủ động cho chó.
D. Kỹ thuật
nuôi chó con sau cai sữa
Căn cứ vào đặc điểm sinh lý tiết sữa của chó mẹ và sự phát triển của chó con,
việc cai sữa chó con là cần thiết. Chó mẹ sau khi sinh được 30 ngày trở lên
lượng sữa cạn dần, không đủ cung cấp cho chó con, trong khi đó nhu cầu chất
dinh dưỡng cho chó con ngày một tăng. Nếu chó mẹ sinh lần đầu lượng sữa càng
ít, và tốc độ cạn sữa càng sớm, lúc này nên cho chó con ăn thêm cháo sữa từ lúc
5 ngày tuổi và từ 15 – 21 ngày tuổi. Việc cho ăn thêm cháo sữa có thịt băm là
cần thiết và hợp lý.
Cai
sữa chó con tiến hành dần dần trong khoảng 5 – 6 ngày, trong 2 ngày đầu tách mẹ
khỏi chó con khoảng 2 giờ. Sau đó thời gian tách dài hơn khoảng 4 – 6 giờ, tiếp
theo tách cả ngày, chỉ cho mẹ gặp con vào buổi tối.
Trong
thời gian này giờ chó ăn phải ổn định, cho ăn thức ăn nó đã quen. Đặc biệt chăm
sóc phải chu đáo, giúp chó tránh những bất lợi do ngoại cảnh đem lại. Chăm sóc
nuôi dưỡng chó con phải thực hiện một cách nghiêm túc. Việc cho ăn, dạo chơi,
chải lông cần đúng giờ qui định.
Nuôi
chó con sau cai sữa, cần căn cứ vào mức độ tuổi của nó, để tăng khẩu phần ăn
hợp lý và tập cho ăn một số loại thức ăn của chó lớn.
Vào
những ngày thời tiết xấu (giá rét, mưa bão, hoặc u ám) buổi tối phải cho chó ngủ
trong nhà ấm, khô ráo, sạch sẽ, đặc biệt tránh ẩm ướt lạnh đột ngột, ban ngày
vẫn có thể nuôi chó bình thường. Ban đêm mùa đông cần sưởi cho chó con.
Trong
thời gian này chó con rất thích hoạt động, tiếp xúc với ngoại cảnh, chó thường
liếp láp các chất bẩn nên dễ mắc bệnh nhất là bệnh đường ruột như : giun sán,
ỉa chảy…
Hàng
ngày dọn chuồng chó con sạch sẽ, và mỗi tháng tắm ít nhất là 2 lần (chú ý mùa
đông phải chọn ngày nắng ấm, tắm xong phải dùng khăn vải sạch lau khô lông).
Nhu
cầu các chất dinh dưỡng đối với chó con sau cai sữa là rất lớn, phải tăng dần,
chú ý bổ sung đầy đủ chất đạm, vitamin đặc biệt chất khoáng đa lượng và vi
lượng.
Trong
thời kỳ này, cần quan tâm kiểm tra chó hàng ngày, định kỳ tẩy giun sán, đề
phòng bệnh giun móc và giun đũa ngay từ ngày thứ 21 trở đi. Chú ý diệt trừ ve,
rận, bọ chó hút máu gây bệnh cho chó.
E. Sự khác nhau về sinh lý dinh
dưỡng giống chó to, nhỏ.
Tùy theo sở thích mà mỗi chúng ta nuôi các giống chó có kích cỡ to nhỏ khác
nhau, chúng cũng khác nhau về đặc điểm sinh lý và nhu cầu nuôi dưỡng, chăm sóc.
Các kiến thức cơ bản dưới đây về dinh dưỡng giúp các bạn có cơ sở khoa học để
chăm sóc tốt cún cưng của mình.
1.
Kích thước ống tiêu hóa:
Giống
chó nhỏ bộ máy tiêu hóa chiếm 7% trọng lượng cơ thể, gấp hơn hai lần các giống
chó to chỉ chiếm 2,7%. Như vậy với giống chó to lượng thức ăn cho một bữa ít
hơn ( so với trọng lượng cơ thể) lượng thức ăn của các giống chó nhỏ, nhưng độ
đậm đặc về chất cung cấp ca-lo ( năng lượng ) lại phải cao hơn thức ăn cho các
giống chó nhỏ.
2.
Sự trưởng thành:
Các
giống chó nhỏ phát triển tới độ trưởng thành ở 8 tháng tuổi, trong khi đó các
giống chó to tới 24 tháng mới hết độ lớn. Do vậy nhu cầu dinh dưỡng các giống
chó nhỏ cần đáp ứng đủ với tốc độ trưởng thành nhanh của cơ thể, trong khi đó
thức ăn nuôi các giống chó to cần phù hợp, điều độ với sự phát triển “dài hơi”
hơn.
3.
Nhu cầu năng lượng:
Các giống chó nhỏ có nhu cầu tiêu tốn năng lượng gần gấp hai lần các giống chó
to, do vậy thức ăn của chúng cần giầu protein, béo và khoáng chất hơn.
4.
Tuổi thọ:
Tuổi
thọ trung bình các giống chó nhỏ là 14 năm, trong khi đó các giống chó lớn chỉ
8 năm. Nhu cầu dinh dưỡng phù hợp cho tuổi “già” của giống chó lớn sớm hơn các
giống chó nhỏ
F. lịch tiêm phòng cho chó
Tiêm ngừa 6 bệnh: Bệnh Carre, bệnh do Parvovirus, bệnh
viêm gan, bệnh viêm hô hấp (ho cũi chó), bệnh phó cúm, bệnh do leptospira lần
1 lúc chó dược 2 tháng tuổi (8 tuần tuổi). Tái chủng sau 1 tháng.
Tiêm ngừa 6 bệnh: lần 2 lúc chó
được 3 tháng tuổi (12 tuần tuổi) cộng với tiêm ngừa bệnh dại. Tái chủng sau 1
năm
Nếu chó của bạn đã trên 3 tháng tuổi thì
chỉ cần tiêm ngừa 1 lần 6 bệnh cùng với bệnh dại. Tái chủng sau 1 năm